Ruồi trắng lá bạc: Bemisia tabaci, Nhóm gen B (= B. argentifolii)
Ruồi trắng nhà kính: Trialeurodes vaporariorum
MÔ TẢ SÂU HẠI
Một số loài ruồi trắng có thể phá hoại cây ớt. Ruồi trắng lá bạc còn được gọi là ruồi trắng khoai lang nhóm gen B. Việc xác định chính xác ruồi trắng lá bạc và ruồi trắng nhà kính là rất quan trọng vì những loài ruồi trắng khác không gây ra thiệt hại kinh tế cho cây ớt. Hãy sử dụng một kính lúp để kiểm tra ruồi non và ruồi trưởng thành. Ruồi trắng trưởng thành rất nhỏ (dài 1.5 mm), mình hơi vàng và có cánh trắng. Ruồi trắng lá bạc giữ đôi cánh hơi chếch dọc lên, hay giống như mái nhà, bên trên cơ thể; hai cánh không tiếp giáp trên lưng mà có một khoảng trống ngăn cách chúng ra. Ruồi trắng nhà kính trưởng thành rất giống với ruồi trắng lá bạc về hình thức nhưng giữ đôi cánh nằm ngang trên lưng và không có khoảng cách giữa các cánh nên gốc cánh tiếp giáp ở giữa lưng.
Ruồi trắng hầu như đều đậu trên mặt dưới của lá. Chúng bay ngay lập tức khi cây bị động. Những quả trứng ruồi nhỏ, thuôn dài chuyển sang một giai đoạn ấu trùng đầu tiên có chân và ăng ten và có thể di chuyển. Cả chân lẫn ăng ten đều mất sau lần đầu rụng lông và những giai đoạn tiếp theo vẫn cố định trên bề mặt lá. Giai đoạn thiếu trùng cuối cùng, thường được gọi là nhộng hay thiếu trùng mắt đỏ, là giai đoạn dễ xác định nhất. Nhộng của ruồi trắng lá bạc hình ô van, hơi trắng, và mềm. Rìa của nhộng vuốt xuống bề mặt lá và có từ một vài sợi tơ sáp dài hoặc không có sợi nào quanh rìa. Ngược lại, nhộng của ruồi trắng nhà kính có nhiều sợi tơ sáp dài xung quanh cạnh và rìa hơi chếch dọc lên ở nơi tiếp giáp với bề mặt lá.
THIỆT HẠI
Ruồi trắng phá hoại ớt bằng cách hút những lượng nhựa cây khổng lồ và bao phủ cây ớt bằng chất dịch dính. Mốc giống muội đen phát triển trên chất dịch, làm giảm khả năng quang hợp của cây và làm cho quả ớt trông khó coi. Cây bị nhiều ruồi ăn hại có thể bị còi cọc, phát triển kém, rụng lá, và giảm sản lượng.
XỬ LÝ
Mật độ không nhất quán trong từng năm, do đó cần theo dõi để phát hiện sự phát triển mật độ loài sâu hại này trong bất cứ năm nào. Ngoài ra, cần có một chương trình quản lý sâu hại tổng hợp đối với ruồi trắng bao gồm việc tuân thủ những phương pháp trồng trọt tốt, chẳng hạn như các giai đoạn không vật chủ, sử dụng các thiên địch, và chỉ sử dụng thuốc trừ sâu khi cần.
Kiểm Soát Sinh Học
Một số loài ong bắp cày, trong đó có các loài thuộc nhóm gen Encarsia and Eretmocerus, ký sinh trên ruồi trắng. Nhộng của ruồi trắng cũng là mồi của bọ mắt to,ấu trùng chuồn chuồn cỏ, và ấu trùng bọ dừa. Ruồi trắng lá bạc là một loài sâu hại du nhập đã thoát khỏi các thiên địch của chúng. Một số sinh vật ký sinh và sinh vật ăn thịt bản địa tấn công chúng, nhưng không giúp duy trì số lượng ruồi dưới mức có thể gây thiệt hại. Ong bắp cày ký sinh, Encarsia formosa, đã được sử dụng thành công để kiểm soát ruồi trắng nhà kính trong các nhà kính hoặc bảo vệ cây trồng ở một số nơi trên thế giới, nơi mà cây ớt được trồng phổ biến theo cách này.
Kiểm Soát Cây Trồng
Cách kiểm soát tốt nhất đồi với ruồi trắng lá bạc là tối đa hóa khoảng cách và khoảng thời gian giữa những vụ cây trồng là vật chủ của ruồi. Nếu có thể, hãy trồng ớt ít nhất cách 1,5 km ngược chiều gió với những cây trồng vật chủ chính của ruồi trắng lá bạc như dưa hấu, cải bắp, và bông. Duy trì vệ sinh tốt ở những khu vực có các cây trồng và cỏ dại là vật chủ của ruồi bằng cách hủy bỏ tất cả phần còn lại của cây trồng đã thu hoạch càng sớm càng tốt. Kiểm soát cỏ dại ở những khu vực không trồng trọt bao gồm những luống đầu ruộng và các ruộng bỏ hoang và thu hoạch cỏ linh lăng càng nhanh càng tốt. Ngoài ra, cho phép thời gian tối đa giữa những vụ cây trồng là vật chủ của ruồi trắng lá bạc và trồng các loại rau và dưa hấu với vụ mùa ngắn nhất có thể được.
Ruồi trắng lá bạc trưởng thành bị xua đuổi bởi những tấm phủ phản quang màu bạc hoặc nhôm. Đặt các tấm phủ phản quang bằng nhựa PE trên nền đất trồng trước khi gieo hạt hay chuyển cây giống để giảm đáng kể tỷ lệ xâm hại bởi ruồi trắng và trì hoãn sự tập trung những số lượng ruồi gây thiệt hại trong 4 đến 6 tuần. Các tấm phủ mất tính hiệu quả khi có hơn 60% bề mặt bị lá che phủ. Do đó, chúng chỉ hiệu quả trong vài tuần đầu sau khi hạt nẩy mầm hoặc chuyển cây giống.
Ruồi trắng nhà kính thường gia tăng do phun các loại thuốc trừ sâu phổ rộng. Tránh sử dụng các chất thuốc này đầu vụ mùa.
Các Phương Pháp Được Chấp Nhận Là Hữu Cơ
Kiểm soát cây trồng và kiểm soát sinh học cũng như phun các loại bọt xà phòng trừ sâu và những loại dầu phun nhất định được chấp nhận sử dụng trong trồng trọt hữu cơ.
Giám Sát và Các Quyết Định Xử Lý
Thường xuyên kiểm tra các rìa ruộng ớt để phát hiện ruồi trắng; những khu vực này thường bị tấn công đầu tiên. Đặc biệt cảnh giới sự tập trung mật độ ruồi nhanh chống khi những cây trồng vật chủ của ruồi ở cạnh đó đang bị suy sụt. Trong những giai đoạn quan trọng, hãy kiểm tra các ruộng ớt hai lần mỗi tuần. Bẫy dính dùng để bắt rệp, bọ trĩ, hay rầy cà chua, cũng có thể hữu ích trong việc phát hiện sự xâm nhập ban đầu của ruồi trắng vào ruộng ớt.
Cho những sinh vật có ích một cơ hội để kiểm soát những đợt tấn công nhẹ của ruồi trắng. Nếu mật độ hiện diện ở những mép ruộng cao hơn so với giữa ruộng, thì chỉ xử lý các mép ruộng. Phương pháp này sẽ giảm chi phí xử lý và giúp duy trì các sinh vật có ích trong ruộng. Ngưỡng xử lý đối với ruồi trắng lá bạc là khoảng 4 cá thể trưởng thành mỗi lá trong 30 mẫu lá già ngẫu nhiên. Hiện chưa có ngưỡng nào cho ruồi trắng nhà kính.
Nếu có mặt ruồi trắng, hãy cân nhắc phun thuốc imidacloprid khi chuyển trồng cây giống hoặc ở giai đoạn gieo mầm ớt để trồng thẳng từ hạt. Các loại xà phòng và dầu trừ sâu không có hiệu quả bằng các chất khác và cần phải phun thường xuyên và phun phủ tốt. Đảm bảo phun phủ cả bề mặt dưới của lá để có thể tiếp xúc ruồi.